Rối loạn đông máu là gì? Các công bố khoa học về Rối loạn đông máu

Rối loạn đông máu là tình trạng ảnh hưởng đến quá trình đông máu, gây nguy cơ chảy máu quá mức hoặc hình thành cục máu đông không mong muốn. Nguyên nhân có thể là do di truyền như bệnh Hemophilia, bệnh Von Willebrand, hoặc do bệnh lý, sử dụng thuốc và thiếu hụt vitamin K. Triệu chứng bao gồm chảy máu kéo dài, bầm tím không rõ nguyên nhân, và đau khớp do chảy máu trong khớp. Chẩn đoán thông qua xét nghiệm máu và điều trị dựa vào nguyên nhân, bao gồm bổ sung yếu tố đông máu hoặc dùng thuốc chống đông. Hiểu rõ tình trạng này giúp quản lý và cải thiện chất lượng sống.

Rối Loạn Đông Máu

Rối loạn đông máu là một nhóm các tình trạng y tế ảnh hưởng đến quá trình đông máu của cơ thể, làm gián đoạn quá trình cầm máu tự nhiên và có thể dẫn đến nguy cơ chảy máu quá mức hoặc hình thành cục máu đông không mong muốn. Các rối loạn này có thể là do di truyền hoặc do các yếu tố môi trường và bệnh lý khác.

Nguyên Nhân Gây Ra Rối Loạn Đông Máu

Có nhiều nguyên nhân gây ra rối loạn đông máu, bao gồm:

  • Di Truyền: Một số rối loạn đông máu, chẳng hạn như bệnh Hemophilia và bệnh Von Willebrand, là do di truyền. Những bệnh này thường do thiếu hụt hoặc khiếm khuyết của các yếu tố đông máu trong máu.
  • Bệnh Lý: Nhiều bệnh lý như bệnh gan, ung thư và bệnh thận có thể ảnh hưởng đến quá trình đông máu thông qua việc thay đổi sản xuất hoặc chức năng của các yếu tố đông máu.
  • Sử Dụng Thuốc: Các loại thuốc như thuốc chống đông máu (ví dụ: heparin, warfarin) hoặc thuốc chống kết tập tiểu cầu có thể làm gián đoạn quá trình đông máu bình thường.
  • Chế Độ Dinh Dưỡng: Sự thiếu hụt vitamin K - một vitamin cần thiết cho sự tổng hợp các yếu tố đông máu - có thể dẫn đến rối loạn đông máu.

Triệu Chứng Của Rối Loạn Đông Máu

Triệu chứng của rối loạn đông máu có thể rất đa dạng, tùy thuộc vào loại rối loạn cụ thể và mức độ nghiêm trọng của nó. Một số triệu chứng phổ biến bao gồm:

  • Chảy máu kéo dài sau khi bị thương hoặc phẫu thuật
  • Chảy máu tự phát, đặc biệt là chảy máu dưới da hoặc trong cơ bắp
  • Bầm tím dễ dàng hoặc xuất hiện các vết bầm tím không rõ nguyên nhân
  • Xuất hiện máu trong nước tiểu hoặc phân
  • Đau khớp hoặc sưng khớp do chảy máu trong khớp

Chẩn Đoán và Điều Trị

Chẩn đoán rối loạn đông máu thường bao gồm việc thực hiện các xét nghiệm máu để kiểm tra số lượng và chức năng của các yếu tố đông máu. Dựa trên kết quả xét nghiệm và triệu chứng lâm sàng, bác sĩ có thể xác định loại rối loạn cụ thể.

Điều trị rối loạn đông máu phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của tình trạng. Các phương pháp điều trị có thể bao gồm:

  • Bổ sung các yếu tố đông máu bị thiếu hoặc bị suy giảm chức năng
  • Dùng thuốc chống đông máu để ngăn ngừa cục máu đông
  • Sử dụng các thuốc hỗ trợ đông máu hoặc kiểm soát chảy máu
  • Điều chỉnh chế độ ăn uống, đặc biệt với việc bổ sung vitamin K nếu cần

Kết Luận

Rối loạn đông máu là một tình trạng phức tạp ảnh hưởng đến sự an toàn và sức khỏe của các cá nhân bị ảnh hưởng. Việc hiểu rõ các nguyên nhân, triệu chứng và phương pháp điều trị có thể giúp quản lý tốt hơn tình trạng này, đồng thời giảm nguy cơ biến chứng nguy hiểm, góp phần nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "rối loạn đông máu":

Chương Trình Đào Tạo Cha Mẹ Dựa Trên Cộng Đồng Cho Các Gia Đình Có Trẻ Mẫu Giáo Có Nguy Cơ Rối Loạn Hành Vi: Mức Độ Sử Dụng, Hiệu Quả Chi Phí và Kết Quả Dịch bởi AI
Journal of Child Psychology and Psychiatry and Allied Disciplines - Tập 36 Số 7 - Trang 1141-1159 - 1995

Tóm tắt Một tỷ lệ đáng kể trẻ em mắc rối loạn hành vi gây rối không nhận được hỗ trợ sức khoẻ tâm thần. Mức độ sử dụng thấp nhất xuất hiện ở những nhóm mà trẻ em có nguy cơ cao nhất. Để nâng cao khả năng tiếp cận, sẵn có và hiệu quả chi phí của các chương trình đào tạo cha mẹ, thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng này đã so sánh một chương trình đào tạo cha mẹ dựa trên cộng đồng với một chương trình đào tạo cá nhân cha mẹ tại phòng khám (FT). Tất cả các gia đình có trẻ mẫu giáo ở hội đồng trường công và trường tư tại Hamilton đã nhận được một bảng kiểm tra liên quan đến các vấn đề tại nhà. Những gia đình gửi lại bảng câu hỏi đạt tỷ lệ trên 90% đã được phân bổ ngẫu nhiên theo từng khối vào: (1) chương trình đào tạo cá nhân tại phòng khám kéo dài 12 tuần (Clinic/Individual), (2) chương trình đào tạo cha mẹ nhóm lớn dựa trên cộng đồng kéo dài 12 tuần (Community/Group), hoặc (3) điều kiện kiểm soát danh sách chờ. Các gia đình nhập cư, những người sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, và phụ huynh có con cái với các vấn đề hành vi nghiêm trọng có khả năng đăng ký vào Community/Groups cao hơn đáng kể so với Clinic/Individual FT. Các bậc cha mẹ trong Community/Groups báo cáo những cải thiện lớn hơn về các vấn đề hành vi tại nhà và duy trì những tiến bộ này tốt hơn trong các lần theo dõi 6 tháng. Một phân tích chi phí cho thấy rằng, với các nhóm 18 gia đình, Community/Groups hiệu quả về chi phí gấp hơn sáu lần so với các chương trình Clinic/Individual.

#đào tạo cha mẹ #rối loạn hành vi #hiệu quả chi phí #trẻ em mẫu giáo #can thiệp tâm lý
Các đặc điểm độc đáo của rối loạn đông máu trong COVID-19 Dịch bởi AI
Critical Care - - 2020
Tóm tắt

Các biến chứng do huyết khối và rối loạn đông máu thường xảy ra trong COVID-19. Tuy nhiên, các đặc điểm của rối loạn đông máu liên quan đến COVID-19 (CAC) khác biệt so với những gì thấy ở rối loạn đông máu do sốt xuất huyết vi khuẩn (SIC) và đông máu nội mạch lan tỏa (DIC), với CAC thường thể hiện mức D-dimer và fibrinogen tăng cao nhưng ban đầu chỉ có những bất thường tối thiểu về thời gian prothrombin và số lượng tiểu cầu. Huyết khối tĩnh mạch và huyết khối động mạch diễn ra thường xuyên hơn trong CAC so với SIC/DIC. Các đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm của CAC có một số sự trùng lặp với hội chứng hemophagocytic, hội chứng chống phospholipid và viêm mạch huyết khối. Chúng tôi tóm tắt các đặc điểm chính của các rối loạn đông máu điển hình, thảo luận về sự tương đồng và khác biệt nhằm xác định đặc điểm độc đáo của CAC.

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở BỆNH NHÂN SEPSIS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG NĂM 2019
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 61-64 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét một số yếu tố liên quan với rối loạn đông máu (RLĐM) ở bệnh nhân sepsis -3 tại bệnh viện bệnh nhiệt đới TW năm 2019. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tiến cứu, sử dụng thuật toán xác định mối liên quan của SIC và một số yếu tố, BN được chẩn đoán sepsis theo SSC (Surviving sepsis campaign)-2016 tại NHTD, đánh giá SIC trong 24 giờ đầu nhập viện. Kết quả và kết luận:  102 BN nghiên cứu, tuổi trung bình là 57, nam chiếm 75%, tỉ lệ sốc nhiễm khuẩn là 65%, điểm SOFA trung bình là 9, tỉ lệ SIC là 70.5%, BN có điểm SOFA càng cao thì tỉ lệ RLĐM càng cao (p=0.002), chưa thâý sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ SIC giữa nhóm có và chưa có sốc, có và không có bệnh nền; nguy cơ tử vong, nặng xin về ở nhóm có SIC cao hơn nhóm không có SIC (p=0.08); BN có chảy máu mức độ vừa và nặng trên lâm sàng có nguy cơ tử vong cao hơn 2.8 lần so với nhóm không có chảy máu hoặc chảy máu nhẹ (p=0.02), BN giảm đông (A5 Extem <34mm) có tỉ lệ tử vong cao gấp 1.9 lần nhóm Rotem bình thường hoặc tăng đông ( p = 0.03).
#Rối loạn đông máu #sepsis-3 #SIC #yếu tố liên quan
ĐẶC ĐIỂM ĐÔNG CẦM MÁU VÀ XÉT NGHIỆM ROTEM Ở BỆNH NHÂN XƠ GAN TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 3 Số 43 - Trang 24-31 - 2023
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm một số chỉ số đông cầm máu và xét nghiệm Rotem ở bệnh nhân xơ gan điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương (NHTD) giai đoạn 2019 - 2022.Đối tượng và phương pháp: 136 bệnh nhân xơ gan điều trị tại NHTD, làm xét nghiệm đánh giá đông cầm máu và Rotem. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu.Kết quả: 136 bệnh nhân có tuổi trung bình 50,9 ± 11,5, nam giới chiếm 78%; 91,2% bệnh nhân xơ gan ở giaiđoạn Child Pugh C. Xét nghiệm đông máu cơ bản (ĐMCB): 97,1% bệnh nhân có PT kéo dài; 89,1% có rAPTTkéo dài; 87,1% có fibrinogen giảm và 87,5% có số lượng tiểu cầu (SLTC) giảm. Xét nghiệm Rotem: 92,6% bệnhnhân có tình trạng giảm đông; tỷ lệ giảm biên độ cục đông cực đại (MCF) ở INTEM là 89,7% và ở EXTEM là81,6%; không có trường hợp nào tăng biên độ cục đông; có 61,1% giảm biên độ cục đông cực đại giảm MCFFibtem, có 1 trường hợp tăng MCF Fibtem.Kết luận: Bệnh nhân xơ gan có biểu hiện rối loạn đông máu trên xét nghiệm đông cầm máu chiếm tỷ lệ cao, chủ yếu gặp hình thái giảm đông. Xét nghiệm Rotem có hiệu quả cao trong đánh giá rối loạn đông máu ở bệnh nhân xơ gan.
#Xơ gan #rối loạn đông máu #Rotem #đông máu cơ bản
Kết quả điều trị rối loạn đông máu rải rác trong lòng mạch
Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả kết quả điều trị bệnh nhân rối loạn đông máu rải rác trong lòng mạch tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội giai đoạn 2016 - 2019. Phương pháp nghiên cứu là can thiệp lâm sàng không đối chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian nằm viện trung bình là 14,89 ngày. Tỷ lệ truyền khối hồng cầu cao nhất (47,06%), truyền khối tiểu cầu (26,49%), tiếp theo là huyết tương tươi đông lạnh (20,59%). Đa số bệnh nhân được sử dụng thuốc chống đông, chiếm 71,43%. Điều trị rối loạn đông máu rải rác trong lòng mạch có hiệu quả với điểm trung bình giảm từ 5,1 xuống còn 4,2, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trong đó số lượng tiểu cầu trung bình và tỷ lệ PT% tăng rõ rệt, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Cần phát hiện sớm và điều trị kịp thời rối loạn đông máu rải rác trong lòng mạch, phối hợp chặt chẽ điều trị bệnh nền, truyền chế phẩm máu và sử dụng thuốc chống đông hợp lí để nâng cao hiệu quả điều trị.
#Đông máu rải rác trong lòng mạch #Truyền chế phẩm máu #Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
KHẢO SÁT THAY ĐỔI HUYẾT ĐỘNG, ĐIỆN GIẢI, KIỀM TOAN VÀ RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở BỆNH NHÂN SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ DUNG DỊCH HYDROXYETHYL STARCH 130 6%
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 38 - Trang 65-71 - 2022
Mục tiêu: khảo sát thay đổi huyết động, điện giải, kiềm toan và rối loạn đông máu ở  bệnh nhân sốc sốt xuất huyết dengue được điều trị dung dịch hydroxyethyl starch 130 6% nhập viện nhi đồng Thành phố từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 Phương pháp: Hồi cứu, mô tả hàng loạt trường hợp. Kết quả: Qua nghiên cứu 60 trường hợp sốc sốt xuất huyết dengue được truyền dung dịch HES 130 6%, tuổi trung bình 5.4 tuổi, nhỏ nhất là 14 tháng, lớn nhất là 14 tuổi. Khảo sát huyết động học trong vòng 24 giờ sau truyền dung dịch HES cho thấy cải thiện tình trạng sốc với trị số nhịp mạch trung bình giảm có ý nghĩa sau 4 giờ (121,3 vs.101,6), cải thiện hiệu áp sau một giờ điều trị, trong khi huyết áp tâm thu, tâm trương, trung bình ổn định ở mức 92,5 – 108,4 mmHg, 73,2-66,2 mmHg, 78,6-82,7 mmHg. Dung tích hồng cầu trung bình (Hct) sau truyền HES 130 6% một giờ là 38,6% cải thiện có ý nghĩa so với ban đầu là 43.4% và ổn định sau đó ở mức 37,5-38,4%. Không có sự thay đổi bất thường đáng kể về điện giải, kiềm toan, đông máu. Lượng dung dịch HES 130 6%  được sử dụng trung bình là 133,8 ± 15,3 ml/kg trong thời gian trung bình là 25,3 ± 2,6 giờ. Biến chứng có thể do truyền dung dịch HES 130 6% bao gồm suy hô hấp (56,7%) do tràn dịch màng phổi, màng bụng; xuất huyết tiêu hóa (8.3%). Không ghi nhận run tiêm truyền hay sốc phản vệ khi truyền dung dịch HES 130 6%. Tỉ lệ thất bại với dung dịch HES 130 6%, phải đổi sang HES 200 6% hoặc dextran 40 10% là 38,3%. Kết quả điều trị không có tử vong. Kết luận: Nghiên cứu giúp các bác sĩ  lâm sàng có thêm một chọn lựa dung dịch HES 130 6% trong điều trị sốc sốt xuất huyết dengue khi mà nguồn dung dịch cao phân tử khan hiếm như HES 200 6%, dextran 40 10%. Tuy nhiên, việc áp dụng dung dịch HES 130 6% chỉ dành cho bệnh nhân sốc sốt xuất huyết dengue, không dành cho sốc sốt xuất huyết dengue nặng và lưu ý vấn đề suy hô hấp xảy ra ở trẻ để có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
#Sốc sốt xuất huyết Dengue #HES 130 6%.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA RỐI LOẠN ĐÔNG CẦM MÁU VÀ SUY CHỨC NĂNG ĐA CƠ QUAN TRÊN BỆNH NHI SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ TÍCH CỰC NỘI, BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Rối loạn đông cầm máu là một biến chứng thường gặp trong sốc nhiễm khuẩn, đặc biệt đông máu rải rác trong lòng mạch là yếu tố nguy cơ gâysuy chức năng cơ quan, và làm tăng tỷ lệ tử vong của bệnh. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 56 trẻ đượcchẩn đoán sốc nhiễm khuẩn tại khoa Điều trị tích cực nội, Bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 08/2019 đến tháng 08/2020. Kết quả: Tại thời điểm chẩn đoán, tỷ lệ rối loạn đông cầm máu tương ứng là: giảm số lượng tiểu cầu (SLTC) (30,4%), PTs(prothrombin time) kéo dài (60,7%), APTTs (partial thromboplastin time) kéo dài (53,6%), bất thường nồng độ fibrinogen (60,7%), tăng D-Dimer (98,2%). Nhóm suy >2 tạng có SLTC thấp hơn, đông máu nội sinh và ngoại sinh kéo dài hơn, nồng độ D-Dimer cao hơn so với nhóm suy 2 tạng (p <0,05). Nhóm có đông máu rải rác trong nội mạch (disseminated intravascular coagulation – DIC) với điểm DIC >4 có nguy cơ suy >3 cơ quan, >4 cơ quan, > 5 cơ quan tương ứng OR=10,5 lần; OR=6,1 lần; và OR=6,5 lần so với nhóm có điểm DIC ≤4 (p <0,05). Kết luận: Trong sốc nhiễm khuẩn, rối loạn đông cầm máu là một biến chứng thường gặp. Rối loạn đông cầm máu là yếu tố làm tăng nguy cơ suy chức năng đa cơ quan.
#rối loạn đông cầm máu #sốc nhiễm khuẩn #suy chức năng đa cơ quan
NGHIÊN CỨU TÍNH HỢP LÝ TRONG VIỆC SỬ DỤNG THUỐC STATIN TRÊN BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP CÓ RỐI LOẠN LIPID MÁU ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN ĐÔNG HẢI TỈNH BẠC LIÊU NĂM 2021-2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Tăng huyết áp ngày càng gia tăng và gây gánh nặng lớn cho hệ thống y tế. Trong các giải pháp kiểm soát tình trạng tăng huyết áp, việc điều chỉnh lipid máu để giảm tần suất rối loạn lipid máu là hết sức cần thiết, trong đó statin là thuốc được lựa chọn hàng đầu. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc statin chưa hợp lý có thể dẫn đến giảm hiệu quả điều trị, đồng thời gia tăng các trường hợp phản ứng có hại của thuốc và sai sót trong sử dụng thuốc. Mục tiêu: Đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng thuốc statin và xác định một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng thuốc statin chưa hợp lý trên bệnh nhân tăng huyết áp có rối loạn lipid máu điều trị ngoại trú tại Trung tâm y tế huyện Đông Hải năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên 195 đơn thuốc của bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp mắc kèm rối loạn lipid máu điều trị ngoại trú tại Trung tâm Y tế huyện Đông Hải từ 01/05/2021 – 28/02/2022. Kết quả: Tỷ lệ sử dụng atorvastatin chiếm tỷ lệ cao nhất với 72,3%, tỷ lệ sử dụng pravastatin là 20,5%, thấp nhấp là fluvastatin chiếm tỷ lệ 7,2%. Tỷ lệ hợp lý chung là 62,1%. Trong đó, tỷ lệ liều dùng, chỉ định thuốc, thời điểm dùng, số lần dùng và tương tác thuốchợp lý lần lượt là 70,3%, 93,3%, 98,5%, 99,5% và 99,5%. Không ghi nhận trường hợp chống chỉ định sử dụng statin. Bác sĩ có trình độ sau đại học có tỷ lệ kê đơn statin hợp lý cao hơn gấp hơn 3,13 lần so với bác sĩ có trình độ đại học (p<0,001); bệnh nhân có từ 3 bệnh mắc kèm trở xuống có tỷ lệ kê đơn statin hợp lý cao gấp 10,52 lần so với bệnh nhân có trên 3 bệnh mắc kèm (p<0,001); số thuốc trong đơn từ 5 thuốc trở xuống có tỷ lệ kê đơn statin hợp lý cao gấp gần 3,89 lần so với đơn thuốc có trên 5 thuốc (p<0,001). Kết luận: Các kết quả nghiên cứu cho thấy cần khảo sát ghi nhận các vấn đề chưa hợp lý trong kê đơn statin để làm cơ sở xây dựng hiệu quả chương trình tập huấn sử dụng statin.
#Statin #rối loạn lipid #tăng huyết áp
ĐẶC ĐIỂM VÀ TÌNH HÌNH RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU DO QUÁ LIỀU CHỐNG ĐÔNG KHÁNG VITAMIN K TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ HẢI PHÒNG - VĨNH BẢO
Tạp chí Sinh lý học Việt Nam - Tập 28 Số 1 - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu (NC) đặc điểm lâm sàng, rối loạn đông máu (RLĐM) ở người bệnh (NB) có tình trạng RLĐM khi đang điều trị bệnh với thuốc chống đông kháng vitamin K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: NC mô tả, tiến cứu trên những NB đang được điều trị bằng thuốc chống đông kháng vitamin K có chỉ số xét nghiệm INR vượt ngưỡng yêu cầu ở những người bệnh có xét nghiệm INR định kỳ 4 tuần/lần tại tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng - Vĩnh Bảo trong thời gian từ 2/2021 – 11/2022. Kết quả: NC trên 79 NB có độ tuổi trung bình là 65.65 ± 12.17 [33:85], đa số thuộc nhóm cao tuổi (73.4%). Tỉ lệ Nam giới (31.6%) thấp hơn so với nữ giới (68.4%) nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0.05). NB có biểu hiện xuất huyết chiếm 22.8%. Chỉ số INR có giá trị trung bình là 5.88 ± 3.0 [3.02 – 23.95]. Nhóm có mức độ INR > 5 (chiếm 51.9%) và nhóm có mức độ INR ≤5 (chiếm 48.1%) có tỉ lệ tương đương nhau (p> 0.05). Trong nhóm RLĐM, nhóm có chỉ số INR >5 có nguy cơ gây xuất huyết chảy máu cao hơn nhóm có chỉ số INR < 5 có ý nghĩa thống kê (p < 0.001). Kết luận: Nhóm NC có RLĐM chủ yếu gặp ở nhóm cao tuổi. Nhóm nam giới gặp ít hơn so với nhóm nữ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. NB có triệu chứng xuất huyết chảy máu chiếm 22.8%. Không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa 2 nhóm có chỉ số INR > 5 và nhóm có chỉ số INR ≤ 5 nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ biến chứng xuất huyết. Từ khóa: INR, rối loạn đông máu, xuất huyết chảy máu.
#INR #rối loạn đông máu #xuất huyết chảy máu
ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ ĐÔNG MÁU ĐO BẰNG ROTEM Ở BỆNH NHÂN NGƯỜI LỚN ĐƯỢC GHÉP GAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số đông máu và các rối loạn đông máu trong phẫu thuật ghép gan. Bên cạnh đó, đánh giá mối tương quan giữa chỉ số đông máu cơ bản và các chỉ số của xét nghiệm ROTEM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:  Nghiên cứu mô tả trên 34 BN nhận gan. BN được lấy máu xét nghiệm ĐMCB và Rotem tại 6 thời điểm: Sau khởi mê (To); kết thúc giai đoạn phẫu tích (T1); kết thúc giai đoạn vô gan (T2); sau tái tưới máu (5 phút sau khi thả kẹp miệng nối tĩnh mạch) (T3); giai đoạn gan mới (T4), và ngày đầu tiên sau gan ghép (T5). Trong mổ, BN được truyền máu và các chế phẩm máu theo phác đồ gợi ý truyền máu của bệnh viện Việt Đức. Các kết quả xét nghiệm được đối chiếu với với khoảng tham chiểu của labo xét nghiệm và được so sánh với thời điểm To. Các chỉ số xét nghiệm ĐMCB được phân tích tương quan với các chỉ số tương ứng trên ROTEM. Kết quả: Rối loạn đông máu dạng giảm đông rất thường gặp ở BN nhận gan, đặc biệt là ở giai đoạn tái tưới máu (APTT kéo dài gặp ở 76,5%, giảm fibrinogen gặp 79,4% và giảm tiểu cầu gặp ở 91.2% BN) và giai đoạn gan mới (PT kéo dài gặp ở 35.3%). Tuy nhiên, tình trạng đông máu có xu hướng trở về bình thường vào ngày đầu sau ghép. Có mối tương quan chặt giữa các chỉ số ĐMCB và chỉ số ROTEM: PT với  CT- EXTEM (r:  0,394);aPTT với CT- INTEM (r: 0,61); Số lượng tiểu cầu với A10 – EXTEM (r: 0,819); nồng độ fibrinogen với MCF - EXTEM (r: 0,631). Kết luận: BN nhận gan thường gặp rối loạn giảm đông trong giai đoạn tái tưới máu và giai đoạn gan mới. Các xét nghiệm ROTEM có mối tương quan tốt với các chỉ số xét nghiệm ĐMCB,  có thể giúp quyết định điều trị sớm hơn.
#Ghép gan #rối loạn đông máu #ROTEM #truyền máu
Tổng số: 70   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7